Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

Chia tay Khu Hoc Xá- - Về nước tham gia khang chiến






NGÀY RA TRƯỜNG
                                                                                                                  
                                                                                                               Nguyễn Trọng Tân,
Nhà giáo, chuyên gia tiếng Pháp,        
Viên Khoa học giáo dục
… Nhớ hôm nào chúng tôi còn nhắc nhau đúng một tháng nữa thì về nước, thế mà ngày mai đã là 19 tháng 12 rồi. Khu học xá sẽ tổ chức lễ tiễn đưa học sinh tốt nghiệp về nước phục vụ cùng với ngày kỉ niệm toàn quốc kháng chiến. Ngày về càng gần, tình tập thể càng gắn bó. Mấy hôm nay, các bạn lớp khối khác tíu tít đến thăm chúng tôi. Cuốn sổ ghi lưu niệm đã kín nhiều trang. Báo của khu đoàn tập trung viết những bài chuẩn bị cho ngày về của chúng tôi. Các cán bộ Trung Quốc dồn sức cho việc chuẩn bị vật chất, cả Khu học xá chăm lo cho đứa con đầu lòng rời Mẹ về Tổ quốc phục vụ.
Ngày 19 tháng 12 năm 1952, toàn khu tập trung dự mít tinh. Khán đài khánh tiết trang nghiêm. Hôm nay, khóa chúng tôi được dành một khu riêng gần khán đài. Buổi lễ khai mạc trọng thể. Đến phần nhà trường và đoàn thể lên căn dặn, đồng chí đại diện Tổng vụ khoa lên phát biểu. Tôi không quên lời căn dặn của đồng chí.“ Ngày mai các bạn về nước để phục vụ nhân dân . Chúng tôi nhớ các bạn nhiều, yêu cầu của kháng chiến là trên hết. Tôi chúc các bạn luôn mạnh khỏe và tiến bộ để phục vụ được nhiều, để Hồ Chủ tịch được vui lòng…”Lần lượt các đại biểu lên căn dặn. Đại diện các em thiếu nhi lên chúc các anh, chị giáo sinh lên đường mạnh khỏe, bình an và ngụy trang cho kín để tránh máy bay.
Cuối cùng anh Nho, Giám đốc khu KHX lên huấn thị, tặng chúng tôi huy hiệu KHX có ghi lời dạy của Bác Hồ. Chúng tôi đứng lên ,nhìn huy hiệu đeo trước ngực. Dưới ánh đèn sáng rực, chân dung Người như đang trìu mến nhìn chúng tôi. Thực vậy, không có Bác, chúng tôi làm gì có được như ngày hôm nay, được học hành chu đáo, được rèn luyện để trở thành người công dân tốt trong xã hội mới.
Anh Song, đại biểu đoàn thể lên đọc lời hứa của đoàn giáo sinh về nước phục vụ. “Quyết tâm ! quyết tâm !”, tiếng hô vang dậy. Tiếng hô từ đáy lòng chúng tôi. Nhìn lên kì đài , lá cờ đỏ sao vàng phấp phới với lá cờ đỏ 5 sao. Phía dưới, chân dung 3 vị lãnh tụ: Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Staline .Các thầy cô một năm nay đã dốc lòng dạy bảo chúng tôi. Các anh chị cán bộ công nhân viên, cấp dưỡng yêu mến chúng tôi như ruột thịt. Các em thiếu nhi khối cấp I cùng chúng tôi quây quần hàng ngày. Tất cả như bừng lên một niềm tin tưởng ở chúng tôi, lớp giáo sinh đầu tiên về nước. Chúng tôi được sống giữa tình yêu thương đằm thắm. Chúng tôi tự nhủ phải quyết tâm khắc phục mọi khó khăn trở ngại để xứng đáng với niềm tin yêu đó.
Ngày về thật nhộn nhịp. Hôm qua, Nam Ngọc Ánh ( bạn tôi ở khối 6) đã đến để chuẩn bị cho tôi, xem lại đôi dép cao su và cho tôi 3 cái rút dép để dùng khi đi đường. Ánh còn sắp xếp lại ba lô cho tôi vì tôi vốn vụng về. Em Nhân (em kết nghĩa với tôi) đến “gia cố” quai ba lô cho chắc và khâu cho tôi cái túi đựng bút. Chị Thảo (chị cấp dưỡng) cho tôi lọ dầu cao và gói quà ăn đường. Cửa ra vào đông nghịt người. Các cán bộ Trung Quốc, các thầy , các bạn ở các khối đến thăm. Sống trong tập thể đầy tình yêu thương khiến cá nhân phải suy nghĩ nên sống làm sao cho xứng đáng.
Sáng ngày 22 tháng 12 năm 1952, chúng tôi lên ô tô ra Nam Nịnh. Ở bãi tập kết, các bạn đã ra tiễn, ba lô trên vai, chúng tôi lên xe như đoàn quân xuất trận. Cảm thấy rất vinh dự. Nhớ nhung lắm song lại pha chút lãng mạn coi mình như người tráng sĩ xin ra trận tiền chiến đấu quyết tử với kẻ thù. Chúng tôi vẫy tay từ biệt người ở lại.
Sân ga Nam Nịnh nhộn nhịp khách hàng. Tiếng loa báo còn 20 phút nữa tàu khởi hành. Chiếc ô tô chở các cán bộ Trung Quốc và các đại biểu cũng vừa đến. Các thầy, các cán bộ đến ngồi cạnh chúng tôi, tôi đưa sổ lưu niệm cho anh Voòng (một cán bộ Trung Quốc ở Tổng vụ khoa) viết. Dưới mấy dòng chữ Hán, anh Voòng kí tên bằng tiếng Việt. Anh còn xem lại cái ba lô của tôi đã gọn gàng chưa. Tôi muốn thời gian kéo dài thêm nữa. Một nỗi nhớ trào dâng, nhớ thầy cô, nhớ bạn bè, nhớ tất cả mọi cảnh vật. Tôi lại nhớ đồng chí Pan (cấp dưỡng người Trung Quốc ở bếp lớp tôi). Sáng nay, mắt đỏ hoe, lần lượt bắt tay chúng tôi và đi tiễn chúng tôi cho đến khi ô tô chuyển bánh mới trở về. Nhớ các anh “Giải phóng quân” luôn ngày đêm canh gác bảo vệ chúng tôi. Nhớ các anh, chị cán bộ Trung Quốc tận tâm phục vụ, nhớ em thiếu nhi Trung Quốc bên cạnh nhà tôi ở. Tôi triền miên trong niềm suy tư. Còi tàu lanh lảnh, tàu từ từ chạy, dưới sân ga, những người ở lại rút mùi soa vẫy. Chúng tôi cùng hát vang bài ca “Ta vui với giờ lên đường”.
Bóng các đồng chí ở sân ga nhỏ dần. Thành phố Nam Ninh đã vào một ngày hoạt động. Nhìn cảnh tưng bừng kiến thiết của nước bạn sau chiến tranh giải phóng dân tộc, cuộc sống ngày một tốt đẹp của chế độ mới, chúng tôi rạo rực mong chóng được trở về Tổ quốc để góp phần vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Rời khỏi thành phố, tàu tăng tốc độ, Nam Ninh xa dần… Sáu giờ chiều, tàu tới Bằng Tường. Ngày sang, Bằng Tường còn hoang vắng mà nay đã khá tấp nập, càng thấy công sức của nhân dân là vĩ đại. Tối nay là tối cuối cùng trên đất bạn, chúng tôi nghỉ sớm để sáng mai về Nam Quan. Đường xe hỏa đã làm xong, song chúng tôi đi ô tô về biên giới. Nam Quan cũng đã được xây lại đẹp đẽ. Chúng tôi xuống xe, chuẩn bị ngụy trang để hành quân về Bắc Sơn. Phía Đồng Đăng, tiếng máy bay ầm ầm. Hai chiếc “spit fire” đang lượn tìm mục tiêu oanh tạc. Đất nước đang gian lao kháng chiến. Nhìn lại, nước bạn đang tưng bừng kiến thiết.
Tạm biệt đất nước Trung Hoa, đã nhường cơm, xẻ áo nuôi dưỡng chúng tôi. Mai đây khi kháng chiến thành công, người dân Việt, người Trung Hoa cũng như toàn thể nhân loại tiến bộ sẽ cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, dân chủ và hạnh phúc.
                                                              Huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, 11/1953         (Trích hồi kí dự thi nhân tháng Hữu nghị Việt- Trung –Xô tháng 1 năm 1954 do Ty Văn Nghệ và tuyên truyển tỉnh Phú thọ tổ chức)
  
















 bẹp di. Thế là mâm tôi mất món ăn mặn, chỉ còn lại một bát  canh toàn “ quốc “
                Sau hơn mt năm sng  trên đát,ban, ăn uống khá đy đ, vy mà ba cơm chiu  nay ch vn vn có mt bát canh suông vi rá cơm hm đã ngm sương chiu lanh ngt, ai ny vn thý m long như ba cơm v vi m.

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

Phan doàn đặc biêt + cuoc di bộ dai nhât






























                                                                       PHỤ LUC
                                      Tóm tắt tình hình chiến sự ở bắc Bộ năm 1051-1952
        Sau thất bại ở chiến trường biến giới  ( 1950 ), thực dân Pháp còn cố giành lại quyền chủ động chiến lược bằng cách tăng quân, thay tướng, xin thêm viện trợ Mỹ, De Latre de Tassigny, viên tướng được coi là tài giỏi nhất của nước Pháp lúc đó, được cử sang Việt Nam với kế hoạch: phát triển quân số, xây dựng hệ thống cứ điểm vững chắc, tập trung giữ chiến trường chính là Bắc Bộ, đồng thời tăng cường càng quét “bình định” Trung Bộ và Nam Bộ, kết hợp với đánh phá, bao vay kinh tế, chiến tranh tâm lý với vùng căn cứ kháng chiến.

Về phía ta, chủ trương chung là tiếp tục giữ khí thế chủ động tiến công liên tục tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
Các đại đoàn 312, 316, 320, 351, 325 được thành lập. Nhiều chiến dịch lớn được mở như Chiến dịch Trần Hưng Đạo (tháng 12/1950-2/1951) ở Bắc Giang, Việt Trì; Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (tháng 4/1951) dọc đường 18; Chiến dịch Quang Trung (tháng 5-6/1951) ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình; Chiến dịch Lý Thường Kiệt (tháng 9-10/1951) ở Nghĩa Lộ; Chiến dịch Hoà Bình (tháng 12/1951-2/1952); Chiến dịch Tây Bắc (tháng 10/1951-2/1952); đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích.

Hoạt động quân sự trên đay của ta gây cho địch nhiều thiệt hại lớn, Kế hoạch de Tassginy phá sản, Cao uỷ kiêm Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương De Latre de Tassginy bị triệu hồi.vè nước…
                                               Tràn ích sưu tầm