Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Giới thiệu toàn diên về Khu học xá



             NHỚ VỀ KHU HỌC XÁ TRUNG ƯƠNG
Phần I.
                                                 (12/1951 – 11/1955)
                                                                                    
     VÕ THUẦN NHO, 
     C Tng giám đốc Khu hc xá

Một ngày thu năm 1951, tôi được đồng chí Bí thư Liên khu ủy IV vừa ở Trung ương về cho tôi biết là tình hình sau chiến dịch Biên giới mở ra nhiều triển vọng. Trung ương thấy cần phải tích cực chuẩn bị đào tạo cán bộ. Trung ương có ý giao cho tôi trách nhiệm đó. Sau hai tuần chuẩn bị, tôi từ giã cơ quan và gia đình ra Việt Bắc gặp Trung ương Đảng. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, đã tiếp tôi và trao nhiệm vụ. Đồng chí đại ý nói rằng hiện nay vùng giải phóng của ta càng ngày càng mở rộng và ngày thắng lợi không còn xưa nữa. Đảng phải lo chuẩn bị cán bộ khoa học để xây dựng đất nước sau ngày thắng lợi. Ở trong nước, điều kiện còn nhiều khó khăn, nên Trung ương đã thương lượng với Bạn dành cho một chỗ bên đó, nhưng về mặt đào tạo giáo dục, ta phải lo là chính, nếu cần gì, Bạn sẵn lòng giúp và đồng chí thay mặt Trung ương trao cho tôi trách nhiệm đó. Nghe nói vậy, khi ấy tôi mới biết rõ mình phải sang Trung Quốc và phải chuyển sang làm công tác giáo dục. Tôi rất lo, tuy trước đây có làm quen với trường học trong ít năm đi dạy tư để sinh sống. Tình hình chuẩn bị quá gấp rút, đường đi lại rất khó khăn, nên tôi đã có khiếm khuyết là không đến làm việc với Bộ Giáo dục ngay được. Mãi đến năm 1989, tôi mới biết là lúc bấy giờ đã có Nghị định của Chính phủ ta thành lập Khu học xá Trung ương. Nghị định ký ngày 1-10-1951.
Tôi lên đường sang Trung Quốc vào một đêm mưa to. Mượn được chiếc xe Jeep cũ (chắc là chiến lợi phẩm) của Bộ Quốc phòng và cùng đi có BS Nguyễn Tấn Gi Trọng. Phải tắt đèn để tránh máy bay. Trời mưa, đường lầy lội và có rất nhiều ổ gà. Đã có lần, xe lao xuống ruộng, tôi và BS Trọng phải xuống ruộng cùng anh lái xe đẩy xe lên. Mãi tới sáng mới qua đèo Mã Phục, vượt cầu biên giới, đi về Thủy Khẩu. Sự đón tiếp đầy nhiệt tình của các đồng chí Giải phóng quân Trung Quốc, với thái độ thân mật anh em, bữa ăn thịnh soạn, giường ngủ êm ả, làm cho tôi lần đầu tiên biết được tình cảm quốc tế. Nhưng sao nhớ quá, nhớ đất nước quê hương mình đang trong cảnh bom đạn, nhớ đến cán bộ quân dân gian khổ biết chừng nào, cơm đứt bữa, ngủ không giường, nhớ đến gia đình đang ở nơi sơ tán, mỗi bữa ăn phải lấy lá chuối đựng thức ăn, không một cái bát lành lặn…
Rời Thủy Khẩu đi Long Châu và Nam Ninh. Đến đây tôi gặp đồng chí Nguyễn Văn Lưu, phụ trách Biện sự xứ Việt Nam tại đó. Trong khi trao đổi ý kiến, đồng chí Lưu đã thông báo cho tôi biết là các đồng chí Trung Quốc đã đặt tên cho Khu học xá Trung ương của ta là “Dục tài học hiệu”, coi đó là nơi đào tạo nhân tài cho Việt Nam.
Rời Nam Ninh, tôi vào Tâm Hư, cách Nam Ninh độ 10 cây số, nơi đại bộ phận cán bộ và học sinh ta đang ở. Đây là một vùng dân tộc thiểu số người Choang, ăn ở rất lạc hậu: cả làng ăn uống trong những ao tù đặc quánh rêu xanh, không có lấy một cái giếng… Nhưng Chính phủ Trung Quốc đã cử người đến giúp đỡ tận tình: Ngoài trung đội Giải phóng quân lo bảo vệ, còn một số cán bộ hậu cần, do đồng chí Thôi khoa trưởng phụ trách. Đồng chí là người miền Bắc, Nam hạ cùng quân giải phóng, là nông dân nhiệt tình, sẵn sàng, nhưng do chưa quen với công tác giáo dục nên chưa hiểu hết những điều kiện cần thiết để giảng dạy học tập tốt, và để tổ chức cuộc sống gọi là có văn hóa.
Khi tôi đến Tâm Hư - vào thượng tuần tháng 12 năm 1951 thì ở đó có cán bộ giảng dạy và học sinh của các trường Khoa học cơ bản, Sư phạm cao cấp, Sư phạm Việt Bắc chuyển sang một số công nhân Việt Nam. Sau này, dần dần thành lập Sư phạm sơ cấp (năm 1952); Sư phạm trung cấp (năm 1952) rồi tách Sư phạm trung cấp thành hai hệ: Sư phạm trung cấp khoa học xã hội và Sư phạm trung cấp khoa học tự nhiên. Năm 1952 thành lập Trường phổ thông, nhà trẻ và mẫu giáo cũng sớm được tổ chức. Số lượng cán bộ, giáo viên học sinh Khu học xá lúc đông nhất vào khoảng 2.500 người, lớp học sinh này tốt nghiệp về nước, lại có lớp học sinh mới sang. Đến năm 1956 chuyển toàn bộ hệ Sư phạm về nước, Khu học xá Trung ương chỉ còn lại học sinh phổ thông cho đến năm 1958 tôi trở về nước nhận công tác khác.
II
Sau khi đến Tâm Hư một tuần hơn, sơ bộ nắm qua tình hình, tôi thấy công việc mới quả là không dễ. Được ủy nhiệm của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tôi triệu tập một số cán bộ Đảng viên và thành lập Liên chi ủy lâm thời, do tôi làm Bí thư. Theo hướng dẫn của trên chúng tôi họp Ban giám đốc Khu học xá bàn công việc. Ban giám đốc gồm có các đồng chí: Võ Thuần Nho, Nguyễn Xiển, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Văn Chiển. Cuộc họp đầu tiên của Liên chi ủy lâm thời và của Ban Giám đốc đã phân tích tình hình khá toàn diện: hoàn cảnh, điều kiện công tác mới của chúng tôi quả là có những yếu tố thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có những khó khăn gay gắt, nếu không có cách khắc phục kịp thời dễ có diễn biến không đơn giản. Những thuận lợi đó là: hoàn cảnh hòa bình, không phải nơm nớp chuẩn bị tránh giặc hằng ngày; điều kiện vật chất đầy đủ do Bạn cung cấp theo yêu cầu của ta; các thành viên của Khu học xá (cán bộ, giáo viên, học sinh) đều đã trải qua giai đoạn gay go của cuộc kháng chiến, có quyết tâm đem sức mình tham gia kháng chiến đến ngày thắng lợi, nay có hoàn cảnh thuận lợi cho cán bộ khoa học tiếp xúc với nền giáo dục của các nước bạn và với nền khoa học hiện đại; sự tín nhiệm của cấp trên trao cho trách nhiệm về công tác mới mẻ này. Trước mặt chúng tôi có rất nhiều khó khăn. Hầu hết mọi người đều có tâm trạng “muốn về”, không chịu ở xa quê hương khói lửa, không an tâm sống trong hòa bình, ăn uống đầy đủ, tách khỏi đồng bào ở Tổ quốc. Tôi cũng không tránh được tâm trạng đó. Tin tức trong nước, thư từ của người thân bên nhà đến quá ít ỏi, liên lạc rất khó khăn. Tập thể Khu học xá gồm người từ nhiều địa phương họp lại, không dễ dàng hiểu biết, thông cảm, chan hòa với nhau, công tác giáo dục đặc biệt là công tác đào tạo giáo viên đối với chúng tôi đều chưa có kinh nghiệm, ngoài một số đồng chí trong Ban giám đốc, trước Cách mạng tháng 8 có đi dạy học, các đồng chí trong Liên chi ủy chưa quen công tác giáo dục, tài liệu sách vở các trường mang sang rất hiếm hoi, sự hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên, của ngành giáo dục vì xa cách nên rất ít ỏi, chúng tôi lại ở vào một địa phương quá lạc hậu về mọi mặt, ngôn ngữ bất đồng, ra khỏi nhà không dễ gì làm quen với người địa phương. Khu học xá Trung ương lúc đầu cũng na ná như một ốc đảo.
Từ những phân tích trên, Liên chi ủy và Ban Giám đốc quyết định chủ trương phải triển khai ngay công tác giáo dục tư tưởng chính trị, kiên trì lâu dài công tác đó. Chính từ quyết định ấy mà đề ra khẩu hiệu: “Khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, hoàn thành tốt nhiệm vụ” cả khi ở Tâm Hư và cả khi ở cơ sở mới xây dựng gần Nam Ninh. Yêu cầu của công tác giáo dục tư tưởng chính trị là bồi dưỡng tinh thần yêu nước căm thù giặc, rèn luyện phẩm chất đạo đức theo lời dạy của Bác Hồ, chịu đựng và khắc phục mọi gian khổ. Chúng tôi nghĩ rằng, khi lòng yêu nước đã được khơi dậy, nó sẽ trở thành sức mạnh của mọi người vượt qua khó khăn để làm tròn nhiệm vụ. Quả thật, suy nghĩ đó qua thực tiễn sau này đã chứng minh là đúng. Xa Tổ quốc, ít biết tin tức, tình hình diễn biến của cuộc kháng chiến trong nước. Chúng tôi cũng đã tổ chức một nhóm cán bộ, sắm thêm đài thu thanh, chuyên lấy tin tức trong nước và nước ngoài qua các đài, đặc biệt qua Đài tiếng nói Việt Nam, và qua báo chí, tuy ít ỏi và thất thường. Chúng tôi cố gắng tổ chức cho người đi về trong nước đều đặn. Chúng tôi tổ chức thường xuyên các buổi nói chuyện cùng cán bộ và học sinh về tin tức và tình hình trong nước, về các vấn đề lý tưởng và đạo đức. Phải chọn người nói chuyện, đó là khâu khá quan trọng. Đó là các đồng chí không những có lòng yêu nước sâu sắc mà còn có năng lực truyền cảm tâm hồn yêu nước của dân tộc mình qua lời nói, qua cử chỉ của mình. Chúng tôi phát động phong trào đọc sách, phân tích các nhân vật tích cực để mọi người lấy đó làm gương. Qua Biện sự xứ của ta ở Nam Ninh, chúng tôi cố mời cho được các anh hùng chiến sĩ, các đoàn đại biểu của ta đi ngang qua, các đồng chí cán bộ chiến sĩ sang bệnh viện Nam Ninh điều trị, vào nói chuyện với cán bộ, thầy giáo, cô giáo, học sinh khu học xá. Những cuộc gặp gỡ như vậy rất cảm động và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc. Bằng các hoạt động trên, chúng tôi gắn Khu học xá với cuộc sống sôi nổi trong nước nhằm rèn luyện tư tưởng ý chí mỗi người. Sống trong hoàn cảnh còn nhiều thiếu thốn về sách vở, về chương trình, về phương pháp, trình độ có hạn, chỉ có một con đường là phát động tinh thần tự học, đem hết trí tuệ ra mà sáng tạo, giải quyết khó khăn, từng bước nâng cao trình độ   .   Đúng là khi lòng yêu nước của mỗi người được khơi dậy, nâng cao, mỗi người càng có ý thức trách nhiệm của mình đối với nước, với dân, và tinh thần tự lực, trí sáng tạo trong công tác, trong học tập từ đó được phát động. Một phong trào trong thầy giáo, cô giáo, học sinh, trong cán bộ, công nhân, nhân viên được dấy lên, phong trào học tập, phong trào rèn luyện, phong trào biên soạn giáo trình, mọi người vươn lên làm tròn trách nhiệm của mình. Công tác giáo dục tư tưởng chính trị đã làm nền tảng, làm đà tiến cho việc giảng dạy, cho việc học tập, tạo nên dòng tin cậy, sự mến thương nhau. Khối đoàn kết giữa các thành phần trong Khu học xá trên cơ sở phấu đấu cho mục tiêu chung dần dần được xây dựng và củng cố, tạo nên môi trường lành mạnh có tác dụng lớn đối với công tác giáo dục đào tạo.
Đi đôi với các hoạt động trên, chúng tôi đề nghị với các đồng chí Trung Quốc cải tiến từng bước về ăn, ở, mặc, đề nghị đào một số giếng lấy nước ăn, mua chum, vại, có cái lọc nước qua phèn chua để dùng, có cái làm hố xí nổi, đề nghị các đồng chí Trung Quốc thêm nhiều chất rau, bớt mỡ trong các bữa ăn, đề nghị may áo quần sao cho vừa khổ người, tránh tình trạng nhiều người mặc áo quần quá lụng thụng, đề nghị giúp các gia đình mua sắm đồ ăn, dụng cụ cần thiết v.v… Có thể các đồng chí Trung Quốc chưa thấy hết sự cần thiết, cấp bách, nhưng cũng hết lòng thỏa mãn các yêu cầu đó. Dần dần mọi người “an cư” hơn, nên “lạc nghiệp” hơn.
  
III
          Nhớ về Khu học xá Trung ương, trước hết tôi nhớ đến những thanh niên trai và gái gửi sang học tập trong những năm tháng đáng ghi nhớ ấy. Đó là những con em nhân dân lao động ở các vùng bị tạm chiếm hoặc các vùng giải phóng, đó là con em của những cán bộ đang lăn lộn trên các chiến trường, ở các cương vị khác nhau. Tiếp xúc lần đầu tiên với thế hệ trẻ ấy ai mà chẳng mến thương. Nét nổi bật trước hết ở họ là tình cảm trong sáng với nước, với dân, với Bác Hồ và Đảng lãnh đạo. Khi mới đến trường, họ có ý nghĩ chung là phải học tập, rèn luyện để trở về nước, phục vụ nhân dân, góp phần nhỏ của mình cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Chỉ sau một thời gian ngắn ở trường, họ thương yêu thầy giáo, cô giáo, cán bộ, nhân viên đang đem hết lòng để dạy dỗ, chăm lo đời sống cho họ, thương yêu và tôn trọng thực sự, chứ không phải chỉ vì kỷ luật, của tổ chức nhà trường. Họ thương yêu bạn bè chân thực, hiếm thấy ở họ sự suy bì, xoi mói nhau. Cũng sẵn có tâm hồn trong sáng đó mà họ chân thành góp ý kiến với Bạn về các thiếu sót cũng như khen ngợi Bạn về ưu điểm, thành tích. Cho nên, sinh hoạt Đoàn thanh niên cứu quốc lúc bấy giờ có nội dung phong phú, thiết thực, cùng nhau nâng cao trình độ tư tưởng, chính trị, phẩm chất, bàn những việc làm cụ thể, cùng nhau nâng cao trình độ tư tưởng, chính trị phẩm chất, bàn những việc làm cụ thể. Có thể nói, thế hệ trẻ đó, lúc bấy giờ đã mang trong người mầm mống của những phẩm chất tốt đẹp. Tôi còn nhớ như mình được sống lại những buổi chiều, tay cầm tay các bạn trẻ vừa đi dạo mát nghỉ ngơi vừa tâm sự với nhau, các buổi sinh hoạt Đoàn mà mọi người đều tích cực phát biểu xây dựng, những buổi phê bình, tự phê bình trong nhóm nhỏ, cũng như trong từng lớp, ở đó không có dè dặt, chỉ có xây dựng thẳng thắn và yêu thương. Tôi còn nhớ như mình được sống lại cái buổi đầu tiên ghi tên học sinh tự nguyện rút ngắn thời gian đào tạo để về nước kịp thời phục vụ kháng chiến bước vào giai đoạn ác liệt. Được ghi tên mình và được nhân vào danh sách là vinh dự đối với mỗi người. Hôm tiễn đưa, tất nhiên có tình cảm lưu luyến, nhưng mỗi người đều có ánh mắt quyết tâm, hứa hẹn. Sau đó, tôi được biết nhiều người đã vào công tác ở các vùng sau lưng địch, vừa dạy học, vừa tham gia du kích đánh giặc, bảo vệ dân, phát triển trường lớp. Thật đáng tự hào được làm việc với thế hệ thanh niên như vậy, và cũng đáng chê trách nếu công tác đào tạo chưa đạt kết quả mong muốn. Có thể nói, thế hệ trẻ đó đã nên người: biết sống, biết làm việc, biết phát huy cái tốt, cái đúng, tránh cái xấu, cái sai.
Ở Khu học xá Trung ương lúc bấy giờ, theo chủ trương của Đảng, đã tập trung được nhiều nhà trí thức, nhiều thầy giáo ưu tú. Bác Hồ đã dặn các cơ quan rằng, tuyển người sang Khu học xá phải có chọn lọc. Họ là những trí thức vốn yêu nước nồng nàn, đã rời Thủ đô, quê hương, gia đình đi làm cách mạng, theo Bác Hồ lên Việt Bắc hoặc ra vùng giải phóng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thiếu thốn của những năm đầu kháng chiến gian khổ và gay go, một lòng cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập. Với tinh thần ấy, trong vị trí công tác mới, có điều kiện làm việc thuận tiện hơn, yên tĩnh hơn, không bị rầy rà bởi tiếng bom đạn, không phải lo chạy ăn, chạy mặc cho gia đình, họ đã đem hết trí tuệ và tinh thần yêu nước của mình để cải tiến và sáng tạo nội dung, phương pháp giảng dạy, giáo dục. Mỗi giờ lên lớp là một giờ vừa truyền thụ tri thức vừa khơi dậy trí tuệ, bồi dưỡng lòng yêu nước, căm thù giặc. Những giờ không lên lớp, họ miệt mài nghiên cứu, xây dựng, cải tiến nội dung, phương pháp, vận dụng kinh nghiệm của các nước anh em. Người nào cũng ra sức học tiếng nước ngoài, học tiếng Nga, tiếng Trung Quốc để học hỏi kinh nghiệm các nước bạn, tiếp thu thành tựu khoa học mới. Có thể nói, kinh nghiệm giáo dục, thành tựu khoa học của Liên Xô, Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam bắt đầu từ hồi ấy, ở Khu học xá Trung ương. Các thầy giáo, cô giáo Khu học xá cũng bước đầu có tác phong mới trong quan hệ thầy trò: Các thầy không chỉ bằng lòng với giờ lên lớp, mà ngoài ra, còn đi đến các buổi học sinh tự học, buổi chiều, buổi tối để cho học sinh hỏi những điều chưa hiểu hoặc chưa nghe học sinh góp ý kiến. Quan hệ thầy trò vừa là quan hệ giữa người dạy và người học, vừa là quan hệ giữa những người bạn cùng chiến đấu cho mục đích chung: Độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Thầy rất đỗi yêu mến trò và tôn trọng nhân cách trò, trò rất đỗi kính trọng và yêu mến thầy. Sau này, khi trong ngành giáo dục có khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu”, tôi nghĩ khẩu hiệu ấy cũng đã nảy sinh trên việc làm ở Khu học xá Trung ương.
Nhớ về Khu học xá Trung ương không thể không nhớ tới Đảng bộ Khu học xá với cán bộ, đảng viên của Đảng bộ. Được sự ủy nhiệm của Trung ương Đảng, khi đến Khu học xá, tôi triệu tập các đồng chí Đảng viên, thành lập Liên chi ủy lâm thời. Trong Khu học xá có những đảng viên cao tuổi, đã từng tham gia các cấp ủy trong nước, nhưng cũng có nhiều đảng viên trẻ, do đồng chí Trần Việt Phương làm Bí thư. Để lãnh đạo Khu học xá và của Trường thiếu nhi Quế Lâm, Trung ương chủ trương thành lập Đảng ủy gồm bốn đồng chí: Võ Thuần Nho, Nguyễn Văn Lưu, Đặng Văn Cáp và Triệu Việt Phương. Các chi bộ Đảng ở Khu học xá thực sự là hạt nhân lãnh đạo ở các đơn vị trường học cũng như cơ quan. Đảng bộ Khu học xá lúc bấy giờ có một niềm tin vững chắc và một sức mạnh rõ rệt. Đó là niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến giành độc lập cho đất nước, đó là niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và của Bác hồ. Mỗi lần nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng là một lần niềm tin và sức mạnh của toàn Đảng bộ được bồi đắp thêm. Khu học xá ở xa Trung ương, không nhận được chỉ thị đều đặn, chúng tôi coi báo Nhân dân như là phát ngôn chính thức của Đảng, vì thế coi việc tổ chức đọc báo Nhân dân hằng tuần (do Biện sự xứ cung cấp) như là phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng vậy. Tôi nhớ có lần nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng đem ra đọc ở Đại hội, có đồng chí nhiều tuổi đã khóc. Niềm tin của Đảng bộ Khu học xá cũng là niềm tin và sự tự giác rèn luyện của bản thân mỗi người để vươn lên trong công tác và trong học tập. Đảng bộ Khu học xá có sức mạnh, đó là sức mạnh của niềm tin và là sức mạnh tiềm tàng ở mỗi đảng viên, tận tụy trong công tác, kiên định trong tư tưởng và gương mẫu trong sinh hoạt. Một chủ trương công tác, một khi trở thành nghị quyết của Đảng bộ là mỗi Đảng viên nghiêm chỉnh chấp hành, phân công nhau đi sát từng “tầng lớp quần chúng” trong Khu học xá, phổ biến, giải thích và tổ chức thực hiện. Đó cũng là biểu hiện nói và làm đi đôi với nhau. Quả thật là rất khó khăn tạo nên được một tâm lý yên tâm và quyết tâm công tác và học tập trong hoàn cảnh Tâm Hư lúc bấy giờ. Quả thật là khó khăn tạo nên được một môi trường đoàn kết, đầm ấm, chan hòa giữa những “con người” từ bốn phương trời tập hợp lại. Đảng bộ Khu học xá đã tạo nên được tâm lý đó và môi trường đó. Được như thế, cũng còn do Đảng bộ Khu học xá đã sớm tổ chức các đoàn thể: Công đoàn, Đoàn thanh niên cứu quốc, Hiệu đoàn học sinh, Hội liên hiệp phụ nữ…
Công đoàn giáo dục Khu học xá đã có đóng góp tích cực vào việc tổ chức cuộc sống của đoàn viên, sắp xếp phân phối nhà cửa từng bước hợp lý hơn, vào việc đánh giá công nhân, viên chức để áp dụng các bậc phụ cấp thỏa đáng, đã tổ chức những buổi vui chơi giải trí, giải quyết các thắc mắc nội bộ, xây dựng khối đoàn kết.
Hội liên hiệp Phụ nữ đã có nội dung sinh hoạt rất thiết thực. Các chị đã cùng nhau góp ý kiến cách nấu nướng thế nào với sự cung cấp của Bạn để hợp khẩu vị Việt Nam, các chị giúp đỡ nhau mỗi khi có người gặp khó khăn, các chị đã tích cực tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo để giúp các chị có con nhỏ an tâm công tác, các chị cũng góp phần giúp nữ sinh các môn nữ công gia chánh v.v…
Hiệu đoàn học sinh và Đoàn thanh niên cứu quốc đã hoạt động mạnh và phong phú, nhất là Đoàn thanh niên cứu quốc. Hiệu đoàn học sinh đã tập hợp tất cả thanh niên học sinh vào hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, tổ chức trọng thể các ngày lễ, các ngày kỷ niệm. Mỗi lần tổ chức như vậy là một ngày hội của Khu học xá và người lớn, cả thầy giáo, cô giáo, cán bộ lãnh đạo cũng như thanh niên học sinh đều tham gia. Có tác dụng sâu sắc với học sinh là Đoàn thanh niên cứu quốc. Đoàn ở Khu học xá đã làm được vai trò của mình là trợ thủ đắc lực của Đảng bộ. Nội dung sinh hoạt của các chi đoàn rất thiết thực, cụ thể, họ thảo luận và góp ý kiến về những biện pháp nâng cao giai đoạn tư tưởng, chính trị, đạo đức và tác phong, cả về tình cảm riêng tư nữa. Các đoàn viên cũng được giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật. Sau khi thảo luận dân chủ, mọi nghị quyết của Đoàn đều được đoàn viên chấp hành khá nghiêm túc. Theo chủ trương của cấp trên, lúc bấy giờ ở Khu học xá thanh niên chưa được đặt vấn đề yêu đương, cũng vì thế mà anh chị em đoàn viên thường có thái độ hơi gay gắt, hẹp hòi với nhau về điều này, có khi đem cả thư từ của người yêu từ trong nước gửi qua để phê nhau. Đó cũng là một phần thiếu sót về lãnh đạo của Đảng bộ, tập trung vào giáo dục những tình cảm lớn, yêu nước, yêu đồng bào, sẵn sàng cống hiến, hy sinh, tư tưởng vị tha, chống chủ nghĩa cá nhân, hầu như hướng mọi người vào một khuôn mẫu mà ít chú ý đến phát triển tính cách riêng của mỗi cá nhân con người cụ thể, ít chú ý đến giáo dục tình cảm gia đình, tình yêu tuổi trẻ v.v…
Khu học xá Trung ương đã hoạt động trong điều kiện đầy đủ về vật chất. Đối với tất cả mọi người, đây là lần đầu tiên được trực tiếp biết đến cái quan niệm trừu tượng gọi là tình cảm quốc tế là thế nào. Trong thời gian đầu ở Tâm Hư, điều kiện sinh hoạt quả là gặp nhiều khó khăn, vì ở giữa cụm dân cư thiểu số lạc hậu. Về học tập, mọi người phải ngồi trên chiếc ghế con, một tấm ván vuông đặt trên đầu gối mà viết, đồ dùng dạy học hầu như không có, ngay cả bảng đen. Nhưng dần dần Bạn thấy sự cần thiết phải có điều kiện như thế nào mới dạy tốt, học tốt được, nên đã từng bước cung cấp đồ dùng dạy học và sau mấy năm đã xây dựng một cơ sở Khu học xá mới, khang trang, theo yêu cầu của ta, ngoài các lớp học, các trường học được bố trí riêng (Mẫu giáo, Phổ thông, Sư phạm, Khoa học cơ bản) còn có phòng thí nghiệm, thư viện, phòng học lớn, bể bơi, vườn cảnh v.v… Bạn cũng cố gắng cung cấp sách tiếng Nga, tiếng Trung Quốc theo đề nghị của ta. Phải thừa nhận rằng cung cấp vật chất, chúng ta được phục vụ đầy đủ, có phần thừa thãi. Mọi người trong cuộc sống ấy, nhất là trong các bữa ăn, đều không khỏi nhớ đến bộ đội, cán bộ, nhân dân ở trong nước thiếu thốn, gian khổ biết chừng nào! Các đồng chí Trung Quốc dần dần cũng hiểu được khẩu vị khác nhau giữa người Việt Nam và người Trung Quốc, cho nên đã cải tiến bữa ăn theo đề nghị của ta. Đồng chí Thôi (Khoa trưởng, phụ trách hậu cần) nghe ta trình bày cũng thấy được sự cần thiết phải đào giếng, phải mua nhiều chum vại và đồng chí đã tần tảo đi mua sắm đầy đủ từ tận huyện Ninh Minh. Một điều đáng ghi nhớ là sự tôn trọng của Bạn đối với các hoạt động nội bộ của ta, về giáo dục cũng như về tổ chức. Ngay theo yêu cầu của ta, Bạn có cử đến giúp ta một số chuyên gia dạy tiếng Trung Quốc và hoạt động ngoại khóa, các đồng chí đó cũng hoàn toàn chịu sự lãnh đạo của ta. Có thể khẳng định rằng, tuy Khu học xá đặt trên đất nước bạn, Bạn giúp đỡ ta nhiều, nhưng Khu học xá là một khu giáo dục có tính độc lập hoàn toàn của người Việt Nam. Các đồng chí Trung Quốc cũng tỏ ra rất thương mến các thanh niên, thiếu niên của ta, trai cũng như gái.
         
NHỚ VỀ KHU HỌC XÁ TW
Phần II

IV.
Trong những năm gần đây, nhiều cuộc họp của cán bộ, công nhân, viên chức, thầy giáo, cô giáo và học sinh của Khu học xá Trung ương được tổ chức. Gặp nhau là tay bắt mặt mừng đến rơi nước mắt. Họ ôn lại những ngày ở Khu học xá Trung ương và đều cảm nhận rằng đó là những ngày để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời mình. Tôi cũng vậy, trong quá trình công tác, có lẽ thời gian ở Khu học xá là thời gian không những công tác đạt được nhiều hiệu quả đáng bằng lòng mà cũng là thời gian đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp về bạn bè, đồng chí, về thế hệ trẻ. Trong các cuộc gặp mặt, hầu hết các đồng chí đều có ý nghĩ rằng chúng ta đã làm tròn nhiệm vụ Trung ương giao và đều tự hào về kết quả đạt được là theo lời căn dặn của Bác Hồ: “Đoàn kết, học tập, tiến bộ, phục vụ.” Khu học xá Trung ương cũng đã có đóng góp đáng ghi nhớcho sự nghiệp xây dựng nền giáo dục chung của nước nhà.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Khu học xá Trung ương đã đào tạo và gửi về nước hàng trăm cán bộ giáo dục. Những lớp giáo viên trẻ mới ra trường ấy, tuy còn rất bỡ ngỡ, lại vừa được sống những năm có điều kiện vật chất đầy đủ, không khí hòa bình, nhưng họ sẵn sàng nhận công tác bất cứ ở đâu. Có thể nói, khẩu hiệu “Tam bất kỳ” lúc bấy giờđã được các giáo viên trẻ tự giác chấp nhận (bây giờ nghĩ lại khẩu hiệu ấy, có người có ý kiến này, có người có ý kiến khác). Họ được phân công về những vùng mới giải phóng, có thể là vùng sau lưng địch, bốn bề bị giặc vây. Họ cũng được phân công về vùng căn cứ Việt Bắc v.v… Ở đâu, việc đầu tiên của họ là huy động được học sinh đi học, giữ được học sinh chuyên cần, vì trong hoàn cảnh lúc bấy giờ đâu phải thanh niên, thiếu niên đòi hỏi và sẵn sàng đến lớp học tập chuyên cần? Nhà trường Khu học xá Trung ương đã trang bị cho đội ngũ giáo viên trẻcác điều kiện để làm nhiệm vụ đầu tiên đó: một quyển vở in (rômêô) các bài hát, một cái đàn, khả năng tổ chức các trò chơi, cách tiếp xúc, vận động đồng bào cho con em mình đến trường.Ở đâu họ cũng phải tự lực soạn chương trình, cho thích hợp, sưu tầm các bài giảng, vì đâu có phải dễ để có được chương trình và sách giáo khoa? Họ thường sử dụng các bài báo, chọn lọcđể có được bài giảng văn… Ở đâu, nhất là ở vùng đang có chiến sự, họ cũng phải chuẩn bị sẵn sàng tham gia đánh giặc cùng các đội du kích. v.v… Chúng tôi, những người ở lại Khu học xá trên đất bạn bình yên, rất xúc động khi được biết học trò của mình vừa dạy học vừa đánh giặc như thế nào và thường hỏi nhau có ai bị thương, ai hy sinh không; rất xúc động được biết các học trò của mình, nhất là các cô giáo trẻ về những nơi hẻo lánh của rừng núi Việt Bắc, sống chan hòa với đồng bào các dân tộc. Có lần đi qua đèo Sài Hồ, lúc ấy cây cối còn rậm rạp, nhìn về những thung lũng xa xa, nơi biết có những cô gái trẻ Khu học xá đang làm nhiệm vụ, tôi rất bùi ngùi và thương mến vô cùng. Một số anh chị em ở Khu học xá rất đỗi ngạc nhiên khi biếtđược những học trò của mình, mới ngày nào còn ngồi trên ghế nhà trường, tập trung nghe giảng, chăm chỉ làm bài, vui chơi trong giờ nghỉ như trẻ con, sống yên bình đầy đủ, mà nay đã trở thành thầy giáo, cô giáo dũng cảm bám trụ vị trí công tác, trong gian khổ và ác liệt, vững vàng làm trách nhiệm của mình. Ở một số vùng, bà con vì thương mến đã gọi là thầy giáo Cụ Hồ.
Sau hiệp định Giơnevơ, miền Bắc giải phóng, Khu học xá đã chuẩn bị, theo chỉ thị của Trungương, một đoàn về nước tham gia tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Do đó kinh nghiệm các anh chịem đó đã tiếp quản các trường học một cách êm đẹp. Họ được anh chị em giáo viên ở lại tín nhiệm và kính nể, vì họ có trình độ và đạo đức cách mạng, làm theo lời Bác Hồ căn dặn vàđược chi viện nhiều giáo viên mới tốt nghiệp sư phạm, Đoàn tiếp quản giáo dục Thủ đô đã nhanh chóng mở lại trường học, góp phần sớm ổn định tình hình xã hội. Một số cán bộ Khu học xá được cử giữ trách nhiệm chủ chốt trong các cấp giáo dục của Hà Nội lúc bấy giờ, và cảnhững năm sau, cả ngày nay nữa. Khu học xá đóng góp về cán bộ cho việc xây dựng nền giáo dục phổ thông ở Hà Nội quả không nhỏ. Các địa phương cũng vậy, các giáo viên ở Khu học xá tốt nghiệp sư phạm, được phân công về, đã cùng với giáo viên trong nước tham gia tích cực vào việc tiếp quản trường phổ thông ở địa phương, mở thêm trường lớp, nhiều người trởthành cốt cán lãnh đạo ngành giáo dục địa phương. Cũng cần nói thêm rằng, nhiều đồng chí ởKhu học xá Trung ương chỉ mới được đào tạo dạy cấp I, cấp II, nhưng do có chí tiến thủ, nên sau khi về nước một thời gian đã được tiếp tục học và hầu hết đã tốt nghiệp đại học sư phạm và cao hơn.
Về xây dựng nền giáo dục đại học và đào tạo cán bộ khoa học, Khu học xá Trung ương cũngđã có đóng góp đáng kể. Thực dân Pháp rút đi, để lại các trường đại học Luật, Y Dược, Khoa học (do Pháp quản lý) và các trường đại học Văn Khoa, Cao đẳng sư phạm (do ngụy quyền Bảo Đại quản lý). Hầu hết cán bộ giảng dạy và một số học sinh các trường cùng một số thiết bị đã di chuyển vào Nam. Ở các vùng tự do, chúng ta có Trường đại học Y ở Việt Bắc, Sưphạm cao cấp Khoa học xã hội ở Thanh Hóa và Khoa học cơ bản, Sư Phạm cao cấp Khoa học tự nhiên ở Khu học xá. Theo chỉ thị của Trung ương, chúng ta có điều động hầu hết học sinh tốt nghiệp sư phạm cao cấp khóa thứ nhất về nước vào giữa năm 1954. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, các đồng chí đó đều được phân phối về Bộ giáo dục, về Hà Nội và các địa phương để xây dựng ngành giáo dục phổ thông. Nhiều người đã được đảm nhiệm công tác quản lý cốt cán và sau này nhiều người trở thành cán bộ lãnh đạo ở các tỉnh, thành, Vụ, Viện và Bộ giáo dục nữa. Địch rút đi. Ta ngừng hoạt động trường đại học luật, về tiếp quản Đại học Y dược Hà Nội. Đối với các trường đại học khác, Khu học xá đã cử cán bộ về tiếp quản cùng các cán bộ trong nước. Và sau đó (vào cuối 1954 đầu 1955) chuyển toàn bộ thầy giáo Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp về công tác trong nước. Các thầy giáo Khoa học cơ bản và Sưphạm cao cấp đảm nhiệm hầu như toàn bộ các môn cơ bản về Toán, Lý, Hóa, Sinh. Không những các thầy giáo Trường Khoa học cơ bản và Trường Sư phạm cao cấp phải đảm nhiệm các chức vụ cốt cán mà còn phải dựa vào sự tích lũy kinh nghiệm ở Khu học xá để soạn chương trình, biên soạn giáo trình các môn cơ bản tự nhiên cho các trường đại học Khoa học và Sư phạm.
Đến năm học 1956 – 1957, Chính phủ quyết định thành lập các Trường Đại học Tổng hợp,Đại học Sư phạm, Đại học Bách khoa, Đại học Nông nghiệp và Đại học Y dược. Ngoài Trường Đại học Y dược vốn có đội ngũ cán bộ của nó, đội ngũ thầy giáo về Khoa học tựnhiên của hai trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm được hình thành chủ yếu từ đội ngũ giảng dạy của hai trường Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp của Khu học xá. Năm 1956 cũng là năm khóa thứ hai Sư phạm cao cấp (về nước học thêm hai năm) tốt nghiệp. Hai trường Đại học Bách khoa và Đại học Nông nghiệp hoàn toàn mới. Đại bộ phận học sinh tốt nghiệp Sư phạm cao cấp được bổ sung làm lực lượng giảng dạy khoa học cơ bản tự nhiên ởhai trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm, và làm cán bộ giảng dạy đầu tiên ở Đại học Bách khoa và Đại học Nông nghiệp. Một số này được đào tạo thêm trở thành cán bộ đầu ngành, kế tục sự nghiệp các thầy giáo cũ. Đối với học sinh tốt nghiệp Khoa học cơ bản (chỉtuyển một khóa ở Khu học xá), trừ một số ít bổ sung làm cán bộ giảng dạy ở trường Đại học Tổng hợp, phần lớn được chọn đi học tiếp ở Trung Quốc, Liên Xô, Đức và sau này cũng trởthành cán bộ giảng dạy cốt cán ở các trường đại học từ năm 1958 trở đi, nhiều người trở thành cán bộ đầu ngành. Như thế là các thầy và trò của hai trường Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp (các môn khoa học tự nhiên) là những cốt cán đầu tiên, là lực lượng giảng dạy đầu tiên ởcác trường đại học đầu tiên ở nước ta (trừ Đại học Y dược), xây dựng nền tảng ở các trườngđại học, góp phần đào tạo các lớp cán bộ khoa học kế tiếp, một số đồng chí đã trở thành nhân tài khoa học của đất nước.
Khu học xá Trung ương làm được nhiệm vụ Trung ương Đảng giao cho và có đóng góp tích cực vào xây dựng nền giáo dục nước nhà là vì ở Khu học xá đã xây dựng một mô hình nhà trường hoàn toàn mới mà trước đó do hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh chiến tranh chưa xây dựngđược. Khi còn công tác ở Khu ủy IV, tôi được phân công phụ trách giáo dục và tuyên huấn, tôi có dịp làm quen với một số tài liệu về cải cách giáo dục năm 1950. Nhờ đó có được một sốhiểu biết chung về nền giáo dục của ta phải có tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng, nhưng cũng chưa có dịp đi vào thực tế trường học. Sang Khu học xá, phải phụ trách một số trường học, hằng ngày đụng chạm đến những vấn đề thực tế của nhà trường, với nhiệm vụ Đảng giao cho, tôi suy nghĩ và nhiều lần đem vấn đề ra trao đổi với một số đồng chí trong Liên chi ủy và Ban giám đốc. Tuy không có hội thảo, đề tài nghiên cứu khoa học, nhưng Liên chi ủy và Ban giám đốc lúc bấy giờ cũng thống nhất một vài điều làm cơ sở đào tạo giáo dục để phổ biến cho các trường, cho cán bộ Đảng và đoàn thể. Sau này, các nhà nghiên cứu giáo dục gọi đó là vấn đề mục tiêu đào tạo của mỗi loại trường học. Mọi người ở Khu học xá, nhất là các thầy giáo, cô giáo, các cán bộ Đảng và Đoàn thể đều nhận thức được rằng, ngoài trình độ khoa học, mỗi học sinh cần được giáo dục lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, thương yêu nhân dân lao động và con em họ, sẵn sàng phục vụ, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giành độc lập cho Tổ quốc, vì lợi ích của nhân dân và con em họ, sẵn sàng giúp đỡ đồng chí và bạn bè, có ý thức được rằng chủ nghĩa cá nhân là xấu. Các thầy giáo tương lai cũng phải giáo dục cho con em nhân dân các phẩm chất đó thông qua nghề nghiệp của mình. Từ những yêu cầu đó, chúng ta đã động viên mọi người bàn về nội dung dạy các môn học phải cải tiến như thế nào ởtrường Khoa học cơ bản, trường Sư phạm và phải rèn luyện nghiệp vụ như thế nào cho các thầy tương lai. Cả hai mặt đó (khoa học cơ bản và nghiệp vụ) ở Khu học xá đều được coi trọng. Để cải tiến nội dung dạy học, các thầy giáo, cô giáo đã bàn bạc sôi nổi thế nào vừa có kiến thức chính xác, khoa học, tiếp cận được với khoa học hiện đại, vừa giáo dục được tưtưởng chính trị. Những thầy giáo, cô giáo Khu học xá đã mạnh dạn rà soát lại các bài giảng, xem lại sách từ trong nước mang sang. Ở trường Khoa học cơ bản thì cố gắng dịch sách của nước ngoài, của Liên Xô, Trung Quốc, đặc biệt là các môn Sử, Văn và Chính trị đã được bàn bạc sôi nổi nhất; có bài thầy phải lên lớp dạy thử cho đồng nghiệp nghe và góp ý kiến. Môn nào, bài nào cũng “gắn” với giáo dục tư tưởng chính trị, tuy có chỗ khiên cưỡng, nhưng đúng là Khu học xá đang làm một việc mà trước đây chưa được đề cập rõ ràng, trực tiếp. Về rèn luyện nghiệp vụ cho học sinh sư phạm, về lý luận cũng như về kỹ năng, thực hành, Khu học xá đã có những cố gắng nhất định. Các thầy giáo đã mạnh dạn biên soạn bài giảng về giáo dục học, và sau khi đã dịch được các sách giáo dục học của Liên Xô (của nhà giáo dục học Kairow), các thầy đã từng bước hoàn chỉnh giáo trình giáo dục học của mình. Các thầy giáo về giáo dục học ở Khu học xá Trung ương sau này về nước đã làm cốt cán, là thầy đầu tiên của môn học này ở trường Đại học Sư phạm. Tất nhiên, trong lý luận giáo dục ở Khu học xá lúc bấy giờ cũng như trong giáo trình giáo dục học, có những điểm sau này coi như là không phù hợp, nhưng chính từ Khu học xá Trung ương bắt đầu xây dựng lý luận giáo dục. Để rèn luyện kỹ năng thực hành nghề nghiệp, nhà trường đã hướng dẫn học sinh soạn các bài mẫu cho điểm 5 bậc theo kinh nghiệm Liên Xô (mà sau này cho là không thích hợp) và tổ chức các buổi thực tập. Nhà trường cũng không quên giúp học sinh tập hát, tập đàn, tập thể dục, tập múa, tập tổ chức các trò chơi v.v… Âm nhạc ở Khu học xá tổ chức theo hướng phát huy nền âm nhạc dân tộc. Dần dần hình thành trong các trường những buổi hoạt động ngoại khóa có tổchức, có hướng dẫn. Chúng tôi đã thực hiện giáo dục như thế, từng bước giáo dục đức, trí, thể, mỹ như thế. Thật ra, khái niệm giáo dục toàn diện, khi tiếp cận với lý luận giáo dục học Xô viết và khi đã có những nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam mới ngày càng sáng tỏ thêm. Nhưthế, từng bước hình thành sự kết hợp giáo dục nội khóa và ngoại khóa. Giáo dục nội khóa có tác dụng sâu sắc đã đành, nhưng các trường ở Khu học xá đánh giá giáo dục ngoại khóa cũng không kém phần quan trọng. Giáo dục ngoại khóa đều do học sinh tự quản lý, lấy chi đoàn Thanh niên cứu quốc là nòng cốt. Mọi người đều biết rằng khi về nước công tác, học sinh sẽgặp những hoàn cảnh phức tạp, không giống như khi học ở trường; để giúp học sinh có thái độchủ động tìm ra các biện pháp xử lý trong các tình huống khác nhau, nhà trường và đoàn thểrất chú ý phát huy tính chủ động, tính độc lập suy nghĩ trong học sinh. Chính trong giờ hoạtđộng ngoại khóa, trong các buổi sinh hoạt lớp và chi đoàn Thanh niên, và cả trong những giờlên lớp, mỗi học sinh đều được tự do phát biểu, bày tỏ ý kiến của mình, có ý kiến không phù hợp với đa số, với thầy… và thái độ của đa số của tổ chức, của thầy giáo là hoặc chấp nhận, hoặc phân tích có tình có lý, chứ ít khi dùng mệnh lệnh ép buộc. Quan hệ giữa cá nhân và tập thể là như vậy, và quan hệ giữa thầy và trò là như vậy. Tóm lại, những nét chung của mô hình nhà trường ở Khu học xá là luôn luôn nâng cao trình độ tư tưởng và khoa học của mỗi người, nắm vững và nhất quán về yêu cầu đào tạo giáo dục, là sự kết hợp thầy và trò, nội khóa và ngoại khóa, cá nhân và tập thể, nhà trường và xã hội của Khu học xá gắn liền với cuộc đấu tranh sôi nổi của toàn dân trong nước, tạo nên một sức mạnh giáo dục có tính tổng hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, của Ban giám đốc và sự chỉ đạo của các đoàn thể. Sau này khi vềnước, các thầy giáo, cô giáo, các cán bộ lãnh đạo Khu học xá đã vận dụng nhiều kinh nghiệm của mô hình nhiều trường đó và đã từng bước rút kinh nghiệm để hoàn thiện. Riêng bản thân tôi, khi tham gia xây dựng trường Bắc Lý thành lá cờ đầu của ngành giáo dục và trường tiên tiến khác. Tôi cũng nhờ có kinh nghiệm của Khu học xá Trung ương, cố gắng chọn lọc và vận dụng theo thực tiễn và đường lối giáo dục của Đảng.
Tóm lại, sự đóng góp của Khu học xá Trung ương đối với trong nước, ngoài nước cung cấpđội ngũ cán bộ khoa học và giáo dục, còn đóng góp cả về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tế trong việc tổ chức giáo dục.
  
V
Gần 40 năm đã trôi qua. Mỗi lần gặp nhau, thấy nhiều người tóc đã bạc, đã có cháu nội cháu ngoại, và một số đã mất. Điều đáng phấn khởi là nhiều người đã trở thành nhà khoa học tựnhiên, nhà khoa học xã hội có tiếng, một số đồng chí đã được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, có người trở thành nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ có tên tuổi, có người được cử vào Trungương Đảng, nhiều người được cử làm Bộ trưởng, Thứ trưởng và các cơ quan quản lý nhà nước v.v… Nhưng nhiều hơn cả là học sinh Khu học xá gặp nhau, hoặc trong những cuộc gặp giữa thầy trò cũng là tay bắt mặt mừng đến chảy nước mắt và ai cũng cảm nhận khoảng thời gian ởKhu học xá Trung ương là khoảng thời gian đẹp – nếu không nói là đẹp nhất – và để lại nhiều kỷ niệm sâu sắc. Kỷ niệm đẹp, sâu sắc đó là gì nhỉ? Nhiều người đã tự hỏi như vậy. Phải chăng đó là những tình, những nghĩa đã khắc sâu, bền vững trong tâm trí mỗi người, đã trởthành bản chất và giá trị của mỗi người, đã trở thành lẽ sống và sức mạnh của mỗi người trên bước đường đời sau khi rời Khu học xá. Sao mà quên được tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa đồng chí ở Khu học xá, cùng nhau trút dòng tâm sự và nâng đỡ nhau tiến lên? Sao mà quên được tình nghĩa giữa thầy giáo, cô giáo, cán bộ và học sinh tận tình giúp đỡ nhau, không quản ngàyđêm, không quản tuổi già, sức khỏe, để cho học trò của mình nên người? Mỗi lần có người lâm bệnh là cả Khu học xá biết tin và lo lắng, thăm viếng, an ủi. Khu học xá là một tập thểtrong đó quan hệ giữa người và người, dù ở lứa tuổi nào, ở cương vị công tác nào, là quan hệthân ái, đoàn kết, sẵn sàng giúp đỡ nhau, san sẻ tình cảm với nhau. Khu học xá cũng là nơi chúng ta đã từng nhìn nhau xót xa khi được một tin không vui từ bên nhà đến, cũng là nơi chúng ta nhảy lên hân hoan mỗi khi được tin chiến thắng từ trong nước. Có lẽ ở đó, người nào trong chúng ta mà không có những người bạn thân thiết nhất, không có những người thầy yêu mến nhất, không có những cán bộ đáng kính, đáng yêu nhất. Ra đời, cuộc đời riêng của mỗi người biến diễn có lúc thuận lợi, có lúc khó khăn. Có thể trong những tình huống đó, mỗi người đều nhớ đến Khu học xá để tăng thêm nghị lực. Cũng có anh chị em tâm sự rằng, mỗi lúc gặp sự cám dỗ của danh, vọng, quyền uy anh chị em đã nhớ đến những giá trị đã tiếp nhậnđược ở Khu học xá và nhờ vậy mà đẩy lùi được những ham muốn thấp hèn, cố gắng giữ cho mình được trong sạch. Đúng, chính những giá trị đó, giá trị của tình, của nghĩa trong quan hệgiữa người và người đã để lại cho mỗi chúng ta những kỷ niệm đẹp đẽ biết bao.
Mong rằng những giá trị đó tồn tại mãi mãi trong mỗi người “dân” Khu học xá Trung ương.
Hà Nội, 20 tháng 11 năm 1989



 Các trí thức nổi tiềng được mời sang giảng dạy tại Khu hoc xá. 
ảnh có các vị : Lê Khả Kế, Dương Trong Bái, Lê Thạc Cát, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Xiển, Nguy Như KonTum






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét