Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Khóa Sư Phạm đăc biêt 1952





KHÓA SƯ PHẠM “ĐẶC BIỆT”
CỦA KHU HỌC XÁ TRUNG ƯƠNG
(Trưởng Ban Liên lac Khóa SPSC 1952
Nguyên Phó trưởng ty giáo dục Sơn La, chuyên viên cao cấp Bộ GD&ĐT)
             
Hồi ấy, bạn nào đã từng công tác, học tập trong những năm đầu tại Khu học xá T.Ư hẳn còn biết và nhớ đến khóa đào tạo đầu tiên để trở về phục vụ đất nước trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Pháp, với cái tên nôm na là khóa “đặc biệt”.
              Đó là cả một khối lớp 7 sư phạm sơ cấp. Chúng tôi gồm 4 lớp: A, B, C và D với trên 150 nam nữ học sinh ở tuổi bẻ gẫy sừng trâu. Tất cả đều là những học sinh Trường Sư phạm TƯ, Trường Sư phạm Việt Bắc, Trường Thiếu sinh quân… và những con em cán bộ các cơ quan tỉnh, khu, trung ương được lựa chọn về học.
              Chúng tôi sống và học tập tại làng Tâm Hư. Đây là một làng nghèo ngoại thành Nam Ninh, Quảng Tây. Bà con là người Choang, sống còn lạc hậu và đói khổ. Dân còn ở trong những mái nhà tranh, tường đất thấp lè tè với những ao tù, đường xá lầy lội. Cả khối lớp 7 được xếp ở một xóm ngay đầu làng, qua đó tới chợ Tâm Hư. Lớp 7A, 7B ở trong một ngôi đình cổ, lớp 7C, 7D ở chung một nhà mới dựng, cột thông còn cả vỏ, tường cót, mái tranh. Tất cả đều nằm giường hai tầng nên người ở trên phải nhẹ nhàng cho người nằm dưới được an giấc. Riêng các chị em ở chung nhà với nữ toàn trường tại một “ốc đảo” giữa ao, qua lại bằng độc đạo, suốt ngày có giải phóng quân Trung Quốc canh gác. Đối diện với các nhà đều là ao tù nước đọng váng xanh lè. Hằng ngày anh em phải thay nhau lấy nước ao đó đổ vào chum sành, chậu gỗ đánh phèn cho lắng mà giặt giũ, tắm rửa, kể cả đánh răng buổi sáng.
          Ở thì vậy, còn ăn uống khá hơn nhiều:
Điểm tâm có bánh bao
Hoặc xôi Tàu “hấn hảo”
Cơm Tàu món ngon sao
Dù cho là “đại táo”
(Trích thơ Đinh Gia Dung)
         Mùa đông bên đó rét hơn bên nhà. Nước bạn cung cấp cho mọi người đầy đủ: chăn, áo bông, giầy vải, quần áo đại cán, mũ bông quai bịt kín tai… Tất cả đồng phục màu xanh sẫm, giống hệt công nhân Trung Quốc. Anh em còn được cấp sinh hoạt phí hằng tháng để chi tiêu vặt.
         Mọi sinh hoạt lúc bấy giờ nghiêm túc lắm. Từ nền nếp học tập, ăn nghỉ, giải trí hằng ngày đến các buổi mít tinh, văn nghệ… đều giờ nào việc ấy, trật tự, kỷ luật răm rắp. Trong nhà ở, mọi thứ đều sắp đặt thống nhất, đúng nơi quy định. Ra đường thì quần áo chỉnh tề, có kiểm tra chặt chẽ.
        Sau một đợt sinh hoạt chính trị về “cải tạo tư tưởng” cuối 1951, tháng 1 năm 1952 khóa học khai giảng. Toàn bộ lớp học đều là những ngôi nhà mới, nền đất, mái tranh, tường cót, cột kèo gỗ thông mùi còn ngai ngái, có lớp kiêm cả nhà ăn. Đôi khi vài chú lợn của dân thả rông, còn ủn ỉn mò vào lớp khi chúng tôi nghe giảng. Gọi cả lớp học nhưng chỉ có một cái bảng, một bàn giáo viên, còn học sinh đều ngồi trên ghế đẩu con với một tấm bảng gỗ kê lên đùi mà ghi chép.
         Đội ngũ thầy cô giáo dạy khối 7 lúc đó đều có đạo đức mẫu mực, trình độ khoa học cao, giỏi nghiệp vụ với nhiều phương pháp giảng dạy độc đáo, hấp dẫn. Số ít thầy cô ở tuổi trung niên, còn đa số là thanh niên, mà chúng ta đều gọi thầy bằng “anh”. Làm sao quên được những giờ lên lớp sinh động, hấp dẫn, dễ hiểu, dễ nhớ của các thầy cô Lê Thị Nhu, Lê Bá Thảo, Hoàng Thụy, Ngô Thúc Lanh, Đinh Gia Khánh, Trần Việt Phương…
           Mặc dầu thời gian học tập rất ngắn, chúng tôi vẫn được giáo dục toàn diện. Các môn họa nhạc, thể dục đều là chính khóa. Các tiết họa nhạc do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Hiếu, họa sĩ Nguyễn Khang dạy, thường hai lớp học chung.
           Về nghiệp vụ, chúng tôi nhập môn Giáo dục học (theo tài liệu của Cai-Rốp, Liên Xô), giáo học pháp bộ môn do anh Hoàng An dạy. Anh em còn được kiến, thực tập sư phạm tại trường cấp I do anh Đức Minh phụ trách. Ai nấy đều hứng thú kiến tập những tiết giảng của các anh Phan Trác Nghị, Nguyễn Mạnh Tầng, Nguyễn Văn Quý. Các anh còn hướng dẫn những giáo viên tương lai này soạn giáo án tỉ mỉ, góp ý kiến cho những tiết thực tập giảng dạy đầu tiên đầy lúng túng, ngỡ ngàng.
         Khóa học còn có phong trào kết nghĩa “anh chị em nuôi”. Mỗi bạn được phân công giúp đỡ mọi mặt một em học sinh cấp I, mà ta gọi là “em nuôi”. Thời gian tuy ngắn, nhưng có hiệu quả. Tình cảm anh chị em thật gắn bó.
        Tại KHX, công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đặt lên hàng đầu. Các thầy giáo tiến hành giáo dục tư tưởng qua các bài giảng đã đành; phong trào hoạt động ngoại khóa còn bổ sung rất phong phú. Trước hết là những thông tin thời sự nóng bỏng của cuộc kháng chiến, những báo cáo trực tiếp của các đoàn đại biểu từ mặt trận trong nước vừa mới sang, những buổi nói chuyện về lý tưởng, đạo đức thanh niên của anh Võ Thuần Nho, anh Việt Phương mà chúng tôi còn ghi chép từng lời. Xen kẽ hằng tháng lại có những buổi cả trường rồng rắn xếp thành hàng đi bộ 10 cây số ra Nam Ninh xem phim Bạch Mao Nữ, Thượng Cam Lĩnh, Công phá Bá Linh… Tối về còn trao đổi, thu hoạch những điều bổ ích.
        Đặc biệt bức thư của Bác Hồ, với lời dạy ngắn gọn “đoàn kết, học tập, tiến bộ, phục vụ” đã trở thành điều tâm niệm, tu dưỡng hằng ngày của mỗi giáo sinh. Lúc hoàng hôn xuống hoặc sau giờ học tối, nhóm tâm giao 3 người sinh hoạt tự phê bình, nhắc nhở nhau rèn luyện. Những cảm xúc hay, các điều thu hoạch, tự phê bình… đều được mỗi người trân trọng ghi vào quyển sổ tu dưỡng tên là “Thế hệ Hồ Chí Minh”.
          Nổi bật nhất là phong trào múa, hát tập thể. Trước buổi học cuộc họp và nhiều buổi liên hoan văn nghệ thường vang lên các bài ca Sư phạm hành khúc, Vui lên đường, Kết đoàn. Rồi ứng khẩu hò lơ, các điệu nhảy tập thể, múa ương ca… làm cả lớp, cả khối rộn ràng, sôi động. Các phong trào thể dục thể thao cũng diễn ra sôi nổi, nhiều bạn tham gia bóng chuyền, bóng rổ, bóng bàn. Lớp nào cũng có đội bóng đi thi đấu với các lớp ngoài khối.
         Vào các dịp tết, ngày kỷ niệm, tuy học tập căng thẳng, nhưng lớp nào cũng ra báo tường. Một số anh em như Nguyễn Phong, Phong Thu còn tham gia làm báo của Khu Đoàn. Anh Nguyễn Quang Hưởng (sau này là nhà văn Nguyễn Kiên), với tập ghi chép “Đổi thay” đã được giải nhất phong trào sáng tác văn học Khu học xá…
         Tất cả chúng tôi hết sức tranh thủ tham gia các hoạt động ngoại khóa cũng là để tạo cho mình thêm một số vốn hành trang bước vào đời của người giáo viên chế độ mới.
         Xuyên qua các hoạt động nói trên là phong trào thi đua “Học sinh gương mẫu”. Trong năm 1952 có hai đợt thi đua lớn: 19/5 và 19/12; có sơ tổng kết. Mỗi tổ, mỗi lớp bình nghị được nhiều bạn là học sinh gương mẫu của lớp, của trường; có một bạn là học sinh gương mẫu toàn khu, có giấy khen, có phần thưởng. Lớp 7D được tặng cờ thi đua học tập khá nhất, 7C giỏi văn nghệ, 7B giỏi thể dục thể thao và báo chí…
          Hồi đó, trong nước quân dân ta liên tiếp chiến thắng giòn giã, cuộc kháng chiến đang gần đi tới thắng lợi. Mới học được bốn tháng thì một hôm văn phòng tổng hiệu bộ báo tin: Ban giám đốc KHX triệu tập cả khối lớp 7 họp bất thường vào chiều thứ năm trong tuần. Mọi người bàn tán xôn xao, không ai đoán ra chuyện gì!. Và chiều hôm ấy, mỗi người một chiếc ghế con, đúng 14 giờ, chúng tôi đã có mặt đông đủ ở hai lớp học ngăn đôi bằng một tấm liếp. Anh Võ Thuần Nho cùng anh Đặng Nghiêm Vạn đến lớp. Với giọng nói ấm áp, anh Nho thông báo: Cuộc kháng chiến trong nước đang thắng lợi, chúng ta phải khôi phục giáo dục ngay trong hậu địch, vừa tranh chấp dân vừa không để trẻ em thất học kéo dài. Bộ giáo dục chỉ thị cho Khu học xá cử anh chị em về nước phục vụ trước. Các lớp về họp, trước hết ghi tên những người xung phong, nếu nhiều quá thì bình nghị lẫn nhau, sau đó Ban Giám đốc sẽ quyết định. Tối hôm ấy, từng lớp học, 100% anh em đều xung phong xin được về nước. Thế là phải bình nghị nhau. Trong sổ nhật ký của anh Đặng Nghiêm Vạn(1) (được Ban Giám đốc phân công theo dõi việc này) đã ghi: “… tôi vẫn lo khi đưa ra bình bầu toàn lớp. Kết quả là anh em giành nhau về, người nọ bảo người kia nên ở lại. Bình nghị xong, C. không được về, chạy đến tôi khóc…”
        Thế là phân đoàn “đặc biệt” ra đời. Một đợt học nước rút, trên hai tháng chuẩn bị cho đoàn “chiến binh” đầu tiên giáp trận. Anh em ở một nhà riêng, được ăn theo chế độ “trung táo” và còn lên tham quan Quế Lâm nữa. Ngày 17/7/1952, toàn Trường Sư phạm đã quyến luyến tiễn đưa những “đứa con đầu lòng” trở về nước. Và sau này, tất cả các bạn ấy đã vào hậu dịch hoạt động, đối mặt với quân thù, một số ít lên miền núi cao khó khăn, gian khổ.
          Sau đó, hơn 100 anh chị em còn lại được tổ chức thành 3 lớp 7B, 7C, 7D và tiếp tục học, thêm được thời gian thực tập sư phạm nữa. Mọi phong trào vẫn sôi nổi như trước. Những thư từ, kinh nghiệm của anh em về nước trước gửi sang đã gợi ý bổ sung cho đoàn sau chuẩn bị càng thiết thực tỉ mỉ hơn. Trung tuần tháng 12 năm 1952, trường tổ chức thi tốt nghiệp. Đêm 19/12, Khu học xá tổ chức lễ ra trường và tiễn đưa những “đứa con” thứ hai, của khóa “đặc biệt” nối tiếp trở về nước. Dưới ánh đèn măng xông sáng choang, trước Ban Giám đốc và các bạn học sinh, sinh viên KHX, chúng tôi rất xúc động tuyên thề “bốn lời hứa phục vụ” khẳng định quyết tâm hi sinh cho mặt trận giáo dục trong kháng chiến.
          Ngày 22/12/1952, chúng tôi lên đường về nước. Bằng xe lửa, anh em về Bằng Tường rồi đi lên xe ô tô qua Mục Nam Quan trở lại Đồng Đăng. Từ đầu với chiếc ba lô màu xanh vuông vắn đầy tài liệu dạy học, tập bài hát, trò chơi, hộp màu hoặc kèn ac-mô-ni-ca… và bao gạo chéo vai, chúng tôi trở lại cuộc đi bộ bí mật hàng trăm cây số để tập kết về hang Bắc Sơn năm trước… Tại đây, các bạn nhận Quyết định bổ nhiệm công tác của Bộ Giáo dục, được về thăm gia đình vài ngày rồi tập trung từng điểm hẹn để cùng về nơi hoạt động. Trừ 12 người ở lại khu ATK học tập rồi quay lại trường Thiếu nhi Việt Nam tại Lô Sơn (Quế Lâm), còn hầu hết được tung vào hậu địch Nam Định, Thái Bình, Kiến An, Hưng Yên, Hà Đông… và lên miền núi Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hòa Bình… Dù trong lòng địch hay miền núi xa xôi hẻo lánh, vượt mọi gian khổ, số giáo viên trẻ nói trên đã góp phần nhen nhóm các trường lớp kháng chiến cho con em. Do có ý thức, quyết tâm, lại có nhiều khả năng, anh chị em đã tập hợp, thu hút được nhiều con em vào học và dạy nhiều lớp; ngoài ra còn là những cán bộ vận động quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách trong kháng chiến. Chỉ ước tính, trong hai năm 1953 – 1954, toàn khóa với trên 150 người, chúng tôi đã đào tạo trên một vạn học sinh cho đất nước. Con số tuy nhỏ bé nhưng là nguồn quan trọng để đào tạo cán bộ phục vụ công cuộc tái thiết đất nước sau ngày giải phóng (1954).
           Từ khi ra trường đến nay, số đông anh chị em vẫn ở ngành giáo dục, khoảng 25% chuyển sang ngành khác. Tất cả đã có những bước phát triển mới. Trong anh em đã có một tiến sĩ khoa học – hội viên Viện khoa học New York (Mỹ), một viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga, 5 tiến sĩ, 4 giáo sư, phó giáo sư, 80% là cử nhân, kỹ sư, 70% các bạn là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
         Về lĩnh vực công tác, có 40 cán bộ giảng dạy đại học, cao đẳng, trung học, 28 là giáo viên trung học cơ sở, 5 hiệu trưởng các trường chuyên nghiệp, 10 hiệu trưởng, hiệu phó trường phổ thông trung học, 4 giám đốc, phó giám đốc Sở giáo dục, 1 Viện trưởng Viện nghiên cứu, 4 phó chủ nhiệm khoa đại học. Ngoài ngành Giáo dục có 2 phó vụ trưởng, 15 chuyên viên cơ quan Trung ương, 3 đại tá quân đội, 1 chủ tịch thành phố, 1 chủ tịch huyện, 2 giám đốc xí nghiệp lớn, 2 nhà văn, 2 thạc sĩ, 1 nghệ sĩ chèo…
           Hầu hết mọi người được trao tặng Huân, Huy chương kháng chiến chống Pháp, Huân chương kháng chiến chống Mỹ, Huy chương vì sự nghiệp giáo dục và nhiều bằng khen các cấp. Nhiều bạn, nhiều năm là chiến sĩ thi đua cơ sở, chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, 4 bạn là chiến sĩ thi đua toàn quốc ngành giáo dục, 4 nhà giáo ưu tú, 2 nghệ sĩ ưu tú, 1 là đại biểu thanh niên, sinh viên đi dự đại hội thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ VI tại Moscow năm 1957. Năm 2002 thêm bạn Nguyễn Kiên đã được giải thưởng văn học Đông Nam Á.
… 30 năm sau, từ mùa thu năm 1981, chúng tôi bắt đầu tập hợp nhau lại, mỗi ngày thêm đông đủ. Điểm lại, nay đã có 110 bạn thường xuyên liên hệ với nhau (tiếc thay 40 bạn đã mất). Tình bạn xưa ngày càng gắn bó. Chúng tôi đã có nhiều hoạt động. Các bạn Hà Nội liên tục có 35 lần họp mặt đón xuân. Lần đầu tiên, toàn khóa đã tổ chức kỷ niệm 35 năm ra trường vào tháng 11 năm 1987 và 4 lần họp tiếp theo vào các dịp kỷ niệm 40 năm, 45 năm, 50 năm, 55 năm thành lập Khu học xá. Nhiều chuyến du lịch được tổ chức, đặc biệt là anh em đã hành hương về nơi chiến đấu cũ Nam Định, Hòa Bình, Lạng Sơn, Phú Thọ, Cao Bằng, Hà Giang. Khóa đã tổ chức viết và in 8 cuốn hồi ký, lại còn xây dựng được một cuốn phim video “Chùm hoa đầu mùa” phản ảnh những hoạt động nói trên. Đến nay, hầu hết đã trên tuổi 80, mỗi khi gặp gỡ nhau, anh chị em đều tự hào mình là khóa “đặc biệt” của Khu học xá, là lớp thầy giáo đầu tiên được đào tạo chính quy của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
                                                                                              Tháng 10 năm 2006- Sưa lại 3/2016

                                                                  









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét